19006172

Mẫu thư tư vấn pháp lý

CÔNG TY LUẬT TNHH …..

Địa chỉ: Số… đường …, phường…, quận …, thành phố Hà Nội

SĐT: 0243 ….. Fax: ………. Email: ………. Website: ….

Số: 012019/TVPL-KH Hà Nội, ngày … tháng … năm 2019

THƯ TƯ VẤN

(Về việc: Bàn giao tài sản trúng đấu giá và trách nhiệm

pháp lý của các bên)

Kính gửi: Công ty TNHH B

Lời đầu tiên, Văn phòng Luật sư xin gửi tới quý Công ty lời chào trân trọng, cảm ơn sự quan tâm, tin tưởng của Qúy công ty tới dịch vụ tư vấn pháp luật của Văn phòng chúng tôi. Dựa trên kết quả buổi trao đổi với quý khách ngày …, trên cơ sở thông tin và tài liệu khách cung cấp, chúng tôi đã nắm bắt các tài liệu, thông tin vụ việc và qua việc thực hiện chuyên môn nghiệp vụ của mình, từ đó nghiên cứu, áp dụng dẫn chiếu quy định của pháp luật hiện hành.

Căn cứ vào Hợp đồng dịch vụ số …. ký ngày … tháng … năm giữa Quý công ty và Công ty Luật TNHH …, chúng tôi xin cung cấp các ý kiến pháp lý nhằm giúp quý khách hàng có được thông tin một cách chính xác và đầy đủ nhất như sau:

I. Bối cảnh tư vấn:

1. Tài liệu vụ việc

STT Tên tài liệu Số lượng Ghi chú
1 Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá; Bản sao Gồm 05 trang
2 Biên Bản Bàn Giao Giấy Tờ; Bản sao Gồm 02 trang
3 Quy chế đấu giá; Bản sao Gồm 11 trang
4 Thông báo và kế hoạch đấu giá tài sản năm 2022; Bản sao Gồm 03 trang
5 Chứng thư và báo cáo thẩm định giá tháng 5/2022 Bản sao Gồm 37 trang

2. Bối cảnh vụ việc:

+) Ngày 20/03/2022, Công ty A đã ký Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá với Công ty B và Công ty C (bên bán đấu giá) để Công ty A bán 05 tàu thủy – xà lan cho Công ty B.

+) Sau khi ký kết Hợp đồng mua bán tài sản trúng đấu giá, Công ty A và Công ty B đã thực hiện thủ tục bàn giao tài sản trúng đấu giá và các giấy tờ pháp lý liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình bàn giao thì Công ty A chỉ đưa các bản Photocopy cho Công ty B mà không bàn giao bản gốc. Hai bên xảy ra mâu thuẫn. Công ty A cho rằng việc thanh lý 05 tàu biển với mục đích bán phế liệu nên không cần bàn giao giấy tờ gốc.

II. Yêu cầu tư vấn

  1. Công ty A chỉ cung cấp cho Công ty B bản photo mà không cung cấp bản chính giấy tờ của 5 con tàu có đúng quy định không?
  2. Trường hợp Công ty A cung cấp cho Công ty B bản chính giấy tờ của 5 con tàu mà Công ty B không thể hoặc không sang tên và đưa các tàu này vào sử dụng (khi đã hết giá trị sử dụng) thì Công ty A có phải chịu trách nhiệm gì không?

III. Căn cứ pháp lý

Khi đưa ra các ý kiến pháp lý trong thư tư vấn này, chúng tôi đã xem xét các văn bản pháp luật có liên quan sau:

  1. Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015;
  2. Luật đấu giá số 01/2016/QH14 được Quốc hội khóa XIV,kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 17 tháng 11 năm 2016;
  3. Luật giao thông đường thủy nội địa số 23/2004/QH11 được Quốc hội Khóa XI , kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.
  4. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giao thông đường thủy nội địa số 48/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2014.
  5. Thông tư 75/2014/TT-BGTVT ngày 19 tháng 12 năm 2014 của Bộ Giao thông vận tải quy định về đăng ký phương tiện thủy nội địa.
  6. Nghị định 111/2014/ND-CP Nghị định quy định niên hạn sử dụng của phương tiện thủy nội địa và niên hạn sử dụng của phương tiện thủy được phép nhập khẩu;

IV. Giả định, bảo lưu

  1. Các tài liệu mà Quý công ty cung cấp là các bản sao đầy đủ, hoàn toàn giống như bản chính, các chữ ký và những phần viết tay thêm vào không hề có yếu tố gian lận.
  2. Các bên tham gia giao kết hợp đồng đều có đủ năng lực và thẩm quyền để ký kết hợp đồng và thoả thuận có liên quan.
  3. Không hề có một thay đổi, bổ sung nào đối với hợp đồng, thoả thuận có trong hồ sơ.
  4. Ngoài tài liệu vụ việc, Quý công ty không còn bất kỳ tài liệu, thông tin nào chưa được cung cấp cho chúng tôi mà có thể ảnh hưởng đến ý kiến tư vấn.
  5. Thư tư vấn này được soạn thảo theo yêu cầu của Quý công ty và chỉ dành riêng cho Quý công ty. Các giải thích, nhận định được nêu trong thư tư vấn này chỉ được hiểu là để đánh giá tính pháp lý liên quan đến các yêu cầu tư vấn của Quý công ty. Chúng tôi không chịu trách nhiệm đối với các nội dung của thư tư vấn khi được sử dụng cho bất kỳ mục đích nào khác ngoài các mục đích của thư tư vấn này.
  6. Chúng tôi không phải chịu bất kỳ nghĩa vụ nào liên quan đến việc có được tài liệu vụ việc, kiểm tra, xác định tính hợp lệ, chính xác của bất kỳ tài liệu vụ việc hay thông tin nào mà Quý công ty đã cung cấp.
  7. Chúng tôi có quyền bảo lưu và miễn trách nhiệm đối với ý kiến tư vấn trong thư tư vấn này khi tài liệu vụ việc, bối cảnh tư vấn không đáp ứng các tiêu chí của phần giả định nêu tại mục IV thư tư vấn này.

V. Ý kiến tư vấn ngắn gọn

Thứ nhất, việc Công ty A chỉ cung cấp cho Công ty B bản photocopy mà không cung cấp bản chính giấy tờ của 5 con tàu thủy nội địa là chưa đúng theo quy định bởi những lý do sau đây:

  • Tài sản là Phương tiện tàu thủy nội địa thuộc trường hợp phải đăng ký lại khi chuyển nhượng quyền sở hữu theo quy định tại Điều 25 Luật giao thông thủy nội địa. Vậy, khi Công ty A không bàn giao giấy tờ pháp lý gốc của 05 con tàu thì Công ty B không thể đăng ký quyền sở hữu.
  • Công ty A có trách nhiệm phải bàn giao tài sản, giấy tờ pháp lý của tài sản là 05 tàu thủy nội địa cho Công ty B khi trúng đấu giá theo Điều 12 của Quy chế đấu giá.

Thứ hai, khi Công ty A đã cung cấp đầy đủ các Giấy tờ pháp lý có liên quan đến 05 con tàu nhưng Công ty B không thể sang tên hoặc không thực hiện thủ tục sang tên theo đúng quy định của pháp luật thì Công ty A sẽ không phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì bởi những lý do sau đây:

(i) Công ty A đã hoàn tất việc cung cấp giấy tờ liên quan đến tài sản bán đấu giá và việc đăng ký chuyển quyền sử dụng tài sản thuộc về trách nhiệm của Công ty B và mọi rủi ro đối với tài sản được bàn giao do bên B chịu trách nhiệm theo điểm a, khoản 3.4, Điều 3 trong Quy định đấu giá

(ii) Bên A không chịu trách nhiệm trong trường hợp tài sản không thể sang tên, chuyển quyền sở hữu đối với tài sản đấu giá theo Điều 13 Quy chế đấu giá tài sản.

(iii) Tại trang 10 của Chứng thư và báo cáo thẩm định giá thì 5/5 con tàu đã khấu hao hết và không còn giá trị sử dụng. Nếu Bên B vẫn tiếp tục đưa các con tàu này vào sử dụng thì Bên B phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với Bên thứ ba.

Mẫu thư tư vấn pháp lý

VI. Ý kiến tư vn chi tiết

1. Thứ nhất về việc Công ty A không cung cấp các giấy tờ pháp lý (giấy tờ gốc) liên quan đến 05 con tàu cho Công ty B khi đã trúng đấu giá tài sản là trái quy định của pháp luật bởi 02 lý do sau đây:

(i) Lý do thứ nhất: Một trong những trách nhiệm của Công ty A là phải bàn giao tài sản, giấy tờ pháp lý của tài sản là 05 tàu thủy nội địa cho Công ty B khi trúng đấu giá. Cụ thể, căn cứ tại điểm c Khoản 2 Điều 12 Quy chế đấu giá tài sản quy định:

c. Công ty….. trực tiếp bàn giao tài sản, giấy tờ pháp lý của tài sản cho người mua được tài sản đấu giá. Người mua được tài sản đấu giá chịu mọi chi phí tháo dỡ, bốc xếp, vận chuyển liên quan đến tài sản bán đấu giá

Từ quy định nêu trên, Công ty A bắt buộc phải bàn giao các giấy tờ pháp lý (bản gốc) cho Công ty B sau khi trúng đấu gia mà không phải là các giấy tờ bản photocopy. Dù sau khi trúng đấu giá, Công ty B có tiếp tục sử dụng hoặc bán phế liệu đối với 05 con tàu thì đó là quyền của Công ty B.

(ii) Lý do thứ hai: Tài sản là Phương tiện tàu thủy nội địa thuộc trường hợp phải đăng ký lại khi chuyển nhượng quyền sở hữu. Vậy, khi Công ty A không bàn giao giấy tờ pháp lý gốc của 05 con tàu thì Công ty B không thể đăng ký quyền sở hữu.

Một trong những quyền của Công ty B sau khi trúng đấu giá là được nhận tài sản đấu giá, có quyền sở hữu đối với tài sản đấu giá theo quy định của pháp luật (endnote b.1.D48 Luật đấu giá). Bên cạnh đó, phương tiện là tàu thủy nội địa là loại tài sản chỉ được công nhận quyền sở hữu sau khi đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo Điều 106 Bộ luật dân sự 2015 và Điều 25 Luật giao thông thủy nội địa (endnote quy định này).

Hơn nữa, căn cứ Điều 14, Điều 15 Thông tư 75/2014/TT-BGTVT ngày 19/12/2014 thì một trong những hồ sơ cần có để đăng ký lại phương tiện là tàu thủy nội địa khi chuyển quyền sở hữu gồm có:

+) Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện thủy nội địa đã được cấp;

+) Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện còn hiệu lực đối với phương tiện thuộc diện đăng kiểm.

+) Hồ sơ gốc còn dấu niêm phong, thành phần hồ sơ gốc ứng với từng trường hợp đăng ký đã được cơ quan đăng ký phương tiện cấp trước đó;

Do đó, để chuyển nhượng quyền sở hữu tàu thủy nội địa từ Công ty A sang Công ty B thì cần phải có một trong các Giấy tờ nêu trên (bản gốc), thế nhưng Công ty A cho rằng: việc đấu giá tài sản là tàu biển nêu trên với mục đích là bán phế liệu nên không cần phải cung cấp hồ sơ gốc là trái quy định pháp luật.

Như vậy, từ những hai lý do nêu trên thì nếu Công ty A không bàn giao các giấy tờ pháp lý liên quan đến 05 con tàu cho Công ty B sau khi trúng đấu giá là vi phạm nghiêm trọng về quyền và nghĩa vụ của các bên trong Hợp đồng mua bán tài sản trúng đấu giá, Quy chế đấu giá tài sản.

2. Thứ hai, khi Công ty A đã cung cấp đầy đủ các Giấy tờ pháp lý (bản gốc) có liên quan đến 05 con tàu nhưng Công ty B không thể sang tên hoặc không thực hiện thủ tục sang tên theo đúng quy định của pháp luật thì Công ty A sẽ không phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì bởi những lý do sau đây:

  • Lý do thứ nhất:Công ty A đã hoàn thành việc bàn giao tài sản và cung cấp giấy tờ pháp lý liên quan đến tài sản bán đấu giá cho Công ty B đúng như quy định tại Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá và Quy chế đấu giá.

Căn cứ tại Hợp đồng mua bán hàng hóa số …/…, Điều 3, khoản 3.4, điểm a quy định về Thời hạn, địa điểm, phương thức giao tài sản bán đấu giá cho người mua được tài sản:

“3.4. Phương thức giao tài sản:

  1. a) Bên A trực tiếp bàn giao tài sản theo đúng danh mục tài sản trong hồ sơ đấu giá. Kể từ khi bên A chính thức bàn giao tài sản cho bên B, bên B chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ tài sản, mọi rủi ro đối với tài sản được bàn giao do bên B chịu trách nhiệm;…”

Từ căn cứ nêu trên, Công ty A đã hoàn tất việc bàn giao tài sản và các tài liệu pháp lý liên quan đến 05 tàu thủy nội địa và một trong những Trách nhiệm của Công ty B là tự liên hệ với cơ quan chức năng để làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản và chịu mọi chi phí liên quan đến đăng ký quyền sở hữu. Tính từ thời điểm hai bên ký vào Biên bản bàn giao thì Công ty B phải chịu trách nhiệm quản lý, bảo vệ tài sản, mọi rủi ro theo điểm a, khoản 3.4, Điều 3 trong Quy định đấu giá (endnote quy định này)

  • Lý do thứ hai:Bên A không chịu trách nhiệm trong trường hợp tài sản không thể sang tên, chuyển quyền sở hữu đối với tài sản đấu giá theo Điều 13 Quy chế đấu giá tài sản.

Căn cứ tại Điều 13 Quy chế đấu giá tài sản (tại trang số 10) có quy định về: Trách nhiệm về chất lượng, tình trạng pháp lý tài sản đấu giá ghi nhận nội dung như sau:

“- Kể từ ngày ký hợp đồng mua bán tài sản đấu giá và bàn giao tài sản, người mua được tài sản đấu giá có trách nhiệm tự liên hệ với cơ quan chức năng làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản, mọi chi phí người mua được tài sản đấu giá chịu. Công ty …… và Công ty…… không chịu trách nhiệm trong trường hợp tài sản không thể sang tên, chuyển quyền sở hữu đối với tài sản đấu giá

Sau khi hai bên ký nhận vào Biên bản bàn giao, trách nhiệm đăng ký quyền sở hữu đối với 05 tàu thủy nội địa thuộc về Công ty B. Hơn nữa, như thông tin Công ty A cung cấp thì Công ty A đã cung cấp giấy tờ pháp lý (bản gốc) của 05 con tàu cho Công ty B và vì lý do nào đó, Công ty B không đăng ký hoặc không thể đăng ký quyền sở hữu thì Công ty B và tổ chức bán đấu giá tài sản được loại trừ trách nhiệm.

 

  • Lý do thứ ba: Tại Chứng thư và báo cáo thẩm định giá đã kết luận: 5/5 con tàu đã khấu hao hết và không còn giá trị sử dụng. Nếu Bên B vẫn tiếp tục đưa các con tàu này vào sử dụng thì Bên B phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với Bên thứ ba.

Như Chứng thư và báo cáo thẩm định giá đã khẳng định 5/5 con tàu đã hết giá trị khấu hao, không được phép đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, tàu số 3 được sản xuất năm 1995 tính đến nay vẫn còn niên hạn sử dụng, Công ty B có thể sửa chữa để tiếp tục sử dụng. Xét theo khoản 1 Điều 4 Nghị định 111/2014/NĐ-CP (endnot điều này), niên hạn của tàu số 3 – sản xuất năm 1995 – vẫn còn niên hạn sử dụng. Trong trường hợp đặc biệt, nếu Thủ tướng chính phủ chấp thuận theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, niên hạn sử dụng của phương tiện có thể được thay đổi. Như vậy, dù đã hết thời gian sử dụng, nhưng nếu Công ty B trùng tu, sửa chữa con tàu đạt đủ tiêu chuẩn đăng kiểm cũng như có đủ giấy phép để để hoạt động trên khu vực thủy nội địa Việt Nam (endnote Điều 24 Luật giao thông thủy nội địa), con tàu vẫn có thể tiếp tục được sử dụng.

Tuy nhiên, khi Công ty B chưa đăng ký lại sau khi chuyển quyền sở hữu tàu biển thủy nội địa thì chưa thế xin cải tạo, sửa chữa lại tàu số 3 để thực hiện đăng kiểm và xin giấy phép Hoạt động trên khu vực thủy nội địa Việt Nam.

V. KẾT LUẬN

Theo thông tin được cung cấp cùng với các văn bản luật và cơ sở pháp lý cụ thể, Công ty chúng tôi xin đưa ra kết luận chung cho Quý Công ty là:

Thứ nhất, từ những tài liệu, hồ sơ mà Quý Công ty cung cấp thì việc bàn giao tài sản và tất cả các giấy tờ pháp lý (bản gốc) có liên quan đến tài sản trúng đấu giá là trách nhiệm của Công ty A. Khi Công ty A từ chối việc cung cấp các giấy tờ nếu trên, Quý Công ty có quyền yêu cầu bằng văn bản đến Công ty A về việc thực hiện đúng theo Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá và Quy chế đấu giá.

Thứ hai, tính từ thời điểm hai bên ký vào biên bản bàn giao tài sản và bàn giao tài liệu liên quan đến 05 con tàu thì Công ty A đã hoàn thành các nghĩa vụ trong Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá. Trách nhiệm đăng ký quyền sở hữu thuộc về Công ty B và Công ty A không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào khác khi Công ty A vẫn đưa 05 con tàu vào sử dụng.

Trên đây là những ý kiến phúc đáp của chúng tôi liên quan đến vụ việc của Quý Công ty trên cơ sở quy định pháp luật hiện hành và thông tin, tài liệu được cung cấp. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào về Thư tư vấn này, Quý Công ty vui lòng liên hệ với chúng tôi để được giải đáp và làm rõ.

Trân trọng cảm ơn!

Nơi nhận:

– Như trên,

CÔNG TY LUẬT TNHH….

(Ký, đóng dấu)

luatannam