Chồng tự ý bán đất là tài sản chung của vợ chồng
Tháng 5/2015 vợ chồng tôi mua một mảnh đất ở quê để khi về hưu thì xây nhà, mảnh đất đó chồng tôi là người đại diện đứng tên. Đầu năm 2016, chồng tôi lén lút bán lô đất đó cho người khác mà không hề có sự đồng ý của tôi. Tôi phải làm sao gì vì đây là tài sản chung?
- Chồng có được tự ý bán tài sản chung của vợ chồng không?
- Quy định về chuyển quyền sử dụng đất là tài sản chung vợ chồng
- Đất đứng tên chồng có phải là tài sản chung?
Tư vấn Hôn nhân gia đình:
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới Tổng đài tư vấn. Trường hợp của bạn, chúng tôi xin trả lời cho bạn như sau:
Căn cứ Khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tài sản chung của vợ chồng được xác định như sau:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Theo quy định trên, tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng trừ tài sản mà vợ chồng được thừa kế hoặc tặng cho riêng. Do đó, trong trường hợp này, vợ chồng bạn mua đất trong thời kỳ hôn nhân mà chồng bạn là người đại diện đứng tên nên đây vẫn được coi là tài sản chung của vợ chồng.
Mặt khác, tại Điều 26 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng:
“1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Luật này.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.”
Tư vấn pháp luật Hôn nhân gia đình trực tuyến 24/7: 19006172
Như vậy, chồng bạn là người đại diện đứng tên lô đất mà vợ chồng bạn mua trong thời kỳ hôn nhân đã tự mình xác lập giao dịch với người thứ ba mà không thỏa thuận với bạn về đại diện giữa vợ chồng trong kinh doanh tại Điều 24, Điều 25 Luật hôn nhân và gia đình thì giao dịch này là vô hiệu. Do đó, để bảo vệ quyền lợi của bạn, bạn có thể làm đơn khởi kiện ra Tòa án nơi có đất để tuyên hợp đồng mua bán vô hiệu và đòi lại đất.
Mọi vấn đề, thủ tục còn vướng mắc xin vui lòng liên hệ tới Tổng đài tư vấn trực tuyến 24/7: 1900 6172 để được tư vấn, giải đáp trực tiếp.