Tôi ký hợp đồng và được cử sang Hàn Quốc đào tạo 2 tháng với tổng chi phí của công ty là 50 triệu và cam kết sau khi trở về sẽ làm việc tại công ty ít nhất 5 năm. Tuy nhiên, hiện tại tôi mới làm được 3 năm thì chấm dứt hợp đồng. Vậy tôi có phải bồi thường chi phí đào tạo không?
Bài viết liên quan:
- Bị sa thải có phải bồi thường chi phí đào tạo không?
- Có được sa thải người lao động nghỉ việc tham gia đình công đòi tăng lương?
- Thời gian học nghề có được tính để hưởng trợ cấp thôi việc không?
Tư vấn hợp đồng lao động:
Chào bạn,cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tới Tổng đài tư vấn. Đối với trường hợp của bạn; chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:
Căn cứ Điều 43 Bộ Luật lao động 2012 quy định:
“Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”
Theo quy định trên, khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật thì người lao động có trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động.
Như vậy, bạn có cam kết với công ty là làm việc ít nhất 5 năm sau khi được đào tạo tại Hà Quốc, tuy nhiên bạn mới làm việc được 3 năm và chấm dứt hợp đồng. Do bạn cung cấp thông tin chưa rõ là chấm dứt hợp đồng lao động hợp pháp hay không hợp pháp nên có 02 trường hợp có thể xảy ra như sau:
+ Nếu bạn chấm dứt hợp đồng lao động hợp pháp theo quy định tại Điều 37 Bộ luật Lao động 2012 tức là thuộc trường hợp được phép đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và tuân thủ thời gian báo trước thì bạn sẽ không phải bồi thường chi phí đào tạo bởi theo Điều 43 chỉ phải bồi thường chi phí đào tạo khi chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.
Bên cạnh đó Điều 37 Bộ luật lao động 2012 quy định như sau:
“1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:
a) Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;
c) Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động;
d) Bản thân hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động;
đ) Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cử hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước;
Tổng đài tư vấn trực tuyến 24/7: 19006172
e) Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền;
g) Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa được hồi phục.
2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;
b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;
c) Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho người sử dụng lao động được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.
3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này”.
+ Nếu bạn chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật tức không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 36 thì phải bồi thường chi phí đào tạo. Tổng chi phí đào tạo là 50 triệu.
Bạn vui lòng tham khảo thêm bài viết: Bị sa thải có phải bồi thường chi phí đào tạo không?
Nếu trong quá trình giải quyết còn vấn đề gì thắc mắc vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn trực tuyến 24/7: 1900.6172 để được tư vấn, giải đáp trực tiếp.
- Công ty chậm đóng kinh phí công đoàn năm 2020 có bị truy thu không?
- Trường hợp nào người lao động sẽ phải bồi thường chi phí đào tạo?
- Trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc khi mua lại công ty
- Chuyển người lao động sang làm công việc khác được hiểu như thế nào?
- Nghỉ việc vì đình công có được trả lương không?