Khởi kiện khi người khác sử dụng đất
Tôi muốn tư vấn về vấn đề khởi kiện khi người khác sử dụng đất
Em và chồng em đã ly hôn 2014. Theo quyết định của Tòa thì tài sản chung là thửa đất có diện tích 500m2 thuộc về anh nhưng anh phải trả lại cho em 10 triệu và 4,5 chỉ vàng, đồng thời thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Mặc dù anh có điều kiện nhưng anh không thi hành án cho nên chi cục thi hành án dân sự huyện em đã kê biên, bán đấu giá phần diện tích trên. Em đăng ký và trúng giá. Sau đó, chính quyền địa phương đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất trên cho em.
Ngay sau khi em nhận bàn giao đất, cha anh đã tự ý đến nhổ bỏ ranh giới do chi cục thi hành án cắm cho em rồi bàn giao lại cho anh canh tác trên mảnh đất này.
Em muốn hỏi luật sư là:
1. Em khởi kiện anh ra Tòa đòi lại quyền sử dụng diện tích đất trên có phù hợp với pháp luật không ạ? Vì sao ạ?
2. Dạ luật sư có thể tư vấn cho em biết phương hướng giải quyết yêu cầu của em không ạ?
Em xin trân thành cảm ơn!
- Tranh chấp đất đai khi không có giấy tờ chứng minh
- Thời gian thụ lý đơn khởi kiện tranh chấp đất đai
- Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai?
Tư vấn pháp luật đất đai:
Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Tổng đài tư vấn. Về khởi kiện khi người khác sử dụng đất, tổng đài xin tư vấn như sau:
1. Quyền khởi kiện về tranh chấp đất đai;
Như thông tin bạn cung cấp, do chồng không thực hiện nghĩa vụ sau ly hôn nên đã bị cơ quan thi hành án dân sự đã kê biên và bán đấu giá phần đất thuộc quyền sở hữu của anh. Mảnh đất đó được bán đấu giá cho bạn và đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đồng thời bàn giao đất trên thực địa. Do đó, về nguyên tắc bạn là chủ sở hữu quyền sử dụng mảnh đất đó. Vì vậy, bạn có quyền khởi kiện khi có tranh chấp đất đai theo Khoản 7 Điều 166 Luật đất đai năm 2013 quy định: “7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.”
Mặt khác, căn cứ Khoản 1 Điều 203 Luật đất đai 2013 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau:
“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;”
Như vậy, mọi tranh chấp đất đai đều phải thông qua thủ tục hòa giải tại UBND xã nơi có đất. Sau khi hòa giải mà tranh chấp vẫn chưa được giải quyết thì có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân.
2. Phương hướng giải quyết;
Bước 1: Bạn gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp ra UBND xã nơi có đất theo Điều 202 và 203 Luật đất đai năm 2013. Theo đó, có 02 trường hợp có thể xảy ra:
– Trường hợp hòa giải thành và hai bên đều thiện chí thực hiện: Bạn có thể yêu cầu Tòa án nhân dân công nhận hòa giải thành theo quy định của khoản 7 Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Tổng đài tư vấn đất đai trực tuyến 24/7: 19006172
– Trường hợp hòa giải không thành hoặc hòa giải thành nhưng chồng bạn không thực hiện: Bạn có thể nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 166 Luật đất đai năm 2013 hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Bước 2: Nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện nơi có đất tranh chấp theo điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo bài viết:
Thời hạn Tòa án thụ lý đơn giải quyết tranh chấp đất đai
Thời gian giải quyết tranh chấp đất đai của UBND cấp huyện
Trong quá trình giải quyết nếu có vấn đề gì vướng mắc về khởi kiện khi người khác sử dụng đất, bạn vui lòng liên hệ tới Tổng đài tư vấn trực tuyến 24/7: 1900 6172 để được tổng đài tư vấn.
- Cấp giấy phép xây dựng đối với đất nằm trong quy hoạch của dự án treo
- Thủ tục chuyển từ đất trồng cây lâu năm sang đất phi nông nghiệp
- Tự điều chỉnh diện tích xây dựng không theo giấy phép xây dựng
- Đất ở được Ủy ban xã giao từ năm 1988 thì có được cấp Giấy chứng nhận
- Xây dựng nhà ở trên đất chưa có Giấy chứng nhận QSDĐ